Tự lực về nguyên liệu thô ở Việt Nam còn thấp
Trong khoảng hai thập kỷ qua, ngành dệt may Việt Nam thể hiện sự phát triển vượt bậc. Lợi thế lao động giá rẻ và các chính sách ưu đãi trong nước giúp đẩy mạnh xuất khẩu dệt may và đưa Việt Nam đứng vào nhóm năm nước xuất khẩu dệt may hàng đầu trên thế giới.
Tiến sĩ Nayak chỉ ra rằng, “khoảng 70% các nhà sản xuất dệt may Việt Nam dùng nguyên liệu thô nhập khẩu. Và gần 50% số nguyên liệu này được dùng trong các sản phẩm sẽ được xuất đi”.
Những nước như Việt Nam, lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu thô cũng như các vật tư khác từ Trung Quốc, phải đối mặt với thách thức trong việc duy trì vận hành nhà máy vì đứt gãy chuỗi cung ứng từ việc phong toả các thành phố ở nước này do COVID-19.
Riêng Việt Nam đã bị sụt giảm 6,6% trong xuất khẩu hàng may mặc (so với cùng kỳ hàng năm) còn 10,6 tỉ đô la Mỹ trong bốn tháng đầu năm. Nhập khẩu nguyên liệu thô cùng kỳ cũng giảm 3% còn 5,2 tỉ đô la Mỹ.
Từ nhu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu dệt may ngày càng tăng, cũng như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Việt Nam sẽ cần phải tự chủ trong sản xuất vải vóc nhằm đáp ứng nhu cầu cũng như thoả mãn nguyên tắc xuất xứ dệt may trong EVFTA.
“EVFTA chắc chắn sẽ đẩy mạnh xuất khẩu may mặc Việt Nam vào thị trường châu Âu”, Tiến sĩ Nayak cho hay. “ Tuy nhiên, thách thức lớn hiện nay là tìm được nguồn vải đúng chất lượng ở Việt Nam. Ngành thời trang và dệt may sẽ cần đẩy mạnh chất lượng vải vóc để tuân thủ nguyên tắc xuất xứ trong EVFTA. Đây được xem là rào cản lớn nhất với các nhà sản xuất dệt may, vì một số nhà sản xuất thời trang hiện nhập vải từ Trung Quốc đại lục và Đài Loan với giá thành rẻ hơn nhiều”.
“Các nhà sản xuất thời trang và dệt may cũng nên chú trọng thực hành sản xuất bền vững để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Điều này đòi hỏi phải đầu tư vào công nghệ và nguyên liệu bền vững mới”.