Sinh viên Ấn Độ sử dụng AI để bảo tồn di sản phụ nữ Việt

Sinh viên Ấn Độ sử dụng AI để bảo tồn di sản phụ nữ Việt

Một nhóm sinh viên Ấn Độ, với sự đồng hành của Đại học RMIT Việt Nam và Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, đã thử sức dùng AI và khoa học dữ liệu để hỗ trợ công tác bảo tồn và quảng bá di sản văn hóa.

Trong hai tuần qua, nhóm sinh viên Học viện Công nghệ Coimbatore (CIT) từ Ấn Độ đã bước vào một môi trường học tập rất khác biệt. Họ được hòa mình vào những câu chuyện về phụ nữ Việt Nam, từ những ký ức thời chiến đến nghề thủ công truyền thống được truyền qua nhiều thế hệ.

Nhóm 16 sinh viên có mặt tại Hà Nội để tham gia chương trình thực tập và hội thảo quốc tế do Đại học RMIT Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam tổ chức. Từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6, nhóm tham dự các buổi hội thảo với chuyên gia từ Việt Nam, Ấn Độ, Australia và Trung Quốc, đồng thời tìm hiểu những cách mới để bảo tồn và quảng bá di sản văn hóa bằng AI và khoa học dữ liệu.

Sinh viên CIT với đại diện Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam và Đại học RMIT Việt Nam (Hình: Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam) Sinh viên CIT với đại diện Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam và Đại học RMIT Việt Nam (Hình: Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam)

Giáo sư Valliappan Raman, Trưởng khoa Trí tuệ nhân tạo và Khoa học dữ liệu tại CIT, đánh giá cao tầm quan trọng của chương trình thực tập liên ngành đối với sinh viên.

“Trong một thế giới kết nối như hiện nay, hợp tác liên ngành không chỉ có lợi mà còn cần thiết để định hình khả năng tạo tác động của nhân sự AI tương lai. Việc hợp tác với chuyên gia từ các lĩnh vực như di sản văn hóa, chăm sóc sức khỏe hoặc thiết kế giúp các em hiểu sâu hơn về những ứng dụng công nghệ lấy con người làm trung tâm, cũng như khía cạnh đạo đức. Những trải nghiệm này giúp các em có được tư duy toàn diện, biết đổi mới có trách nhiệm, diễn giải dữ liệu một cách có ý nghĩa và đồng sáng tạo những giải pháp tạo tác động xã hội rộng lớn hơn”, ông cho biết.

Sinh viên làm việc với bản ghi chép tư liệu truyền miệng do Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cung cấp, rồi áp dụng AI và xử lý ngôn ngữ tự nhiên để hé mở các chủ đề bao trùm như tình mẫu tử, vai trò của phụ nữ trong thời chiến, khó khăn trong sinh kế, nghề thủ công và truyền thống.

Sinh viên cũng phân tích hiệu quả truyền thông trên mạng xã hội của bảo tàng, xác định loại bài đăng và hashtag nào kết nối với khán giả trực tuyến nhiều nhất.

Dưới sự hướng dẫn của giảng viên Đại học RMIT tại Việt Nam và Australia, Đại học Giao thông Thượng Hải, CIT, cũng như phòng Truyền thông của Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, sinh viên đã biến dữ liệu thành hiểu biết sâu sắc. Nhóm đã phát triển các biểu đồ trực quan, thống kê những chủ đề thịnh hành và đưa ra đề xuất giúp bảo tàng thu hút thế hệ trẻ hơn và sắp xếp các bộ sưu tập hiệu quả hơn.

Sinh viên CIT và RMIT cùng tham gia hoạt động nhóm Sinh viên CIT và RMIT cùng tham gia hoạt động nhóm với nhân viên Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam và thầy Kenneth Rabin, giảng viên ngành Thiết kế ứng dụng sáng tạo, Đại học RMIT. (Hình: Ondris Pui)
Sinh viên thảo luận Sinh viên thảo luận ý tưởng dự án với thầy Ondris Pui, giảng viên ngành Thiết kế ứng dụng sáng tạo và trưởng ban tổ chức chương trình tại RMIT. (Hình: Nguyễn Phương Vân Nhi)

“Các dự án của nhóm sinh viên đã đưa ra những gợi ý quý giá cho định hướng tương lai của việc tích hợp và phát huy các giá trị di sản bằng công nghệ”, bà Lê Cẩm Nhung, Trưởng phòng Truyền thông, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, cho biết.

“Cách tiếp cận này cũng phù hợp với chiến lược phát triển của bảo tàng chúng tôi trong giai đoạn tới. Những sáng kiến ​​kết nối với các trường đại học quốc tế sẽ là một trong những hoạt động chính của chúng tôi nhằm tăng cường chia sẻ kiến ​​thức và biến bảo tàng thành môi trường học tập mở cho công chúng”.

Sự hợp tác này không chỉ mang tính kỹ thuật. Sinh viên cũng được hướng dẫn cân nhắc về đạo đức khi làm việc với các câu chuyện cá nhân và dữ liệu văn hóa, cũng như học cách tiếp cận công việc với sự nhạy cảm và tôn trọng.

Ngoài chương trình thực tập, nhóm sinh viên còn có cơ hội hòa mình vào văn hóa địa phương thông qua các hoạt động tham quan và giao lưu với sinh viên RMIT Việt Nam.

Sinh viên CIT tham quan Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. (Hình: Ondris Pui) Sinh viên CIT tham quan Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. (Hình: Ondris Pui)
Sinh viên thưởng thức đặc sản Việt Nam ở Hà Nội. (Hình: Ondris Pui) Sinh viên thưởng thức đặc sản Việt Nam ở Hà Nội. (Hình: Ondris Pui)

Sinh viên CIT Dhivyaabharathi S cho biết đây là lần đầu tiên cô trải nghiệm môi trường học thuật thực sự mang tính quốc tế. Cô đánh giá cao trải nghiệm này vì tính thực tế và thực hành cao hơn so với các dự án học thuật thông thường.

“Việc hợp tác với bảo tàng khiến công việc trở nên đặc biệt hấp dẫn. Kỳ thực tập của tôi tại Đại học RMIT ở Hà Nội không chỉ là dấu ấn chuyên môn đáng nhớ mà còn là cơ hội trưởng thành, đóng góp đáng kể cho tôi phát triển cả về mặt học thuật và cá nhân”.

Sinh viên thảo luận với nhân viên bảo tàng Sinh viên Dhivyaabharathi S (phải) với bà Nguyễn Thị Tuyết, Giám đốc Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam (giữa) và bà Nguyễn Thị Phương Thảo đến từ phòng Truyền thông của Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam (trái) (Hình: Ondris Pui)

Sinh viên Arya Nakshathra N K thì cho biết: “Kỳ thực tập là một hành trình vô cùng thú vị và bổ ích. Quá trình làm việc với bảo tàng cho phép tôi khám phá văn hóa, cách kể chuyện và các phương tiện truyền thông đại chúng một cách có ý nghĩa. Tôi thực sự biết ơn vì có cơ hội làm việc trong một môi trường đa dạng và đầy cảm hứng như vậy”.

Sinh viên thuyết trình Sinh viên Arya Nakshathra N K trình bày phân tích về hiệu quả truyền thông mạng xã hội của Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam trước các bạn học và nhân viên bảo tàng. (Hình: Ondris Pui)

Chương trình phản ánh cam kết rộng lớn hơn của RMIT Việt Nam đối với các trải nghiệm học tập thực tế, có ý nghĩa, kết nối sinh viên xuyên quốc gia và liên ngành để giải quyết các thách thức đương đại. Điều này phù hợp với trọng tâm của trường về hợp tác khu vực và đổi mới xã hội, cho thấy các trường đại học có thể đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối mọi người và ý tưởng lại với nhau.

Ông Ondris Pui, giảng viên ngành Thiết kế ứng dụng sáng tạo và trưởng ban tổ chức chương trình ở RMIT, chia sẻ: “Chúng tôi luôn tìm cách hợp tác với các trường đại học quốc tế sẵn sàng đóng góp hoặc hỗ trợ các tổ chức địa phương tại Việt Nam”.

“Việc hợp tác như vậy là bệ phóng cho những sản phẩm mới mẻ và chưa được khám phá, mang lại lợi ích về cả mặt xã hội và văn hóa. Bằng cách kết hợp tư duy sáng tạo, công nghệ và những câu chuyện nhân văn, sinh viên cũng có được ý thức sâu sắc hơn về sứ mệnh của mình. Tôi hy vọng sẽ có nhiều quan hệ đối tác giữa lĩnh vực sáng tạo và AI hơn nữa để tạo nên các giải pháp có tác động và tính bao trùm cho những cộng đồng mà chúng tôi phụng sự”, ông nói.

Thông qua việc hỗ trợ bảo tàng kết nối với khán giả hiện đại hay khám phá những câu chuyện chưa được kể thông qua dữ liệu, cuộc giao lưu công nghệ-văn hóa này cho thấy với sự hỗ trợ phù hợp, sinh viên có thể bắt đầu kiến tạo tác động thực sự.

Bài: Hoàng Minh Ngọc

Hình đầu trang: Đặng Diệu Linh

Tin tức liên quan