Kết quả từ nghiên cứu có ý nghĩa hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách y tế thiết lập quy định và tiêu chuẩn để quản lý ứng dụng chánh niệm trong y học - xác định xem liệu chánh niệm là phương pháp điều trị bệnh hay liệu pháp tâm lý (hay cả hai) trong lâm sàng, đồng thời đưa ra tiêu chí đánh giá khoa học cho việc thực hành chánh niệm đại trà. Kết quả còn hỗ trợ các nhà nghiên cứu chọn ra khái niệm và thang đánh giá phù hợp nhất cho từng nghiên cứu.
Phan Nhật Trâm (bút danh Phan-Lê Nhật Trâm), chủ nhiệm nghiên cứu và nghiên cứu sinh Tiến sĩ Đại học RMIT, chia sẻ rằng trong y tế, chánh niệm hiện là xu hướng được sử dụng như một phương pháp điều trị lâm sàng và can thiệp y tế, không chỉ cho bệnh nhân mà còn cho nhân viên y tế.
“Chánh niệm được xem là một công cụ để ngăn ngừa và điều trị bệnh, tăng khả năng đối phó với cơn đau và bệnh mãn tính, cũng như giảm căng thẳng”, cô nói.
“Đối với nhân viên y tế, chánh niệm đôi khi được bao gồm trong đào tạo chăm sóc sức khỏe nhằm giảm căng thẳng, nuôi dưỡng lòng nhân từ hay sự cảm thông với bệnh nhân, và giảm thiểu sai sót y tế. Bên cạnh lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, chánh niệm còn được thực hành rộng rãi trong trường học, nhà tù, các tập đoàn, các đội chơi thể thao và qua ứng dụng điện thoại”.
Chánh niệm đã trở thành một ngành công nghiệp với vốn hóa lên đến hàng tỉ đô la. Tính đến tháng 5/2020, hơn 20.000 cuốn sách về chánh niệm được bán ra trên Amazon, quảng bá lợi ích của việc ngủ trong chánh niệm, dạy trong chánh niệm, vẽ trong chánh niệm, lãnh đạo trong chánh niệm, và một quốc gia có chánh niệm (sách A Mindful Nation của Tim Ryan),... Và Headspace, ứng dụng phổ biến nhất về thực hành chánh niệm, có tới 31 triệu người dùng trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, theo Trâm, hiện tồn tại tranh luận liên quan đến việc “thao túng” và lạm dụng chánh niệm, đặc biệt là trong y học.
Trâm chia sẻ: “Một số nhà nghiên cứu Phật giáo đưa ra ý kiến rằng những thực hành chánh niệm đại trà hiện nay tự nhận hoặc đánh đồng với thực hành chánh niệm nguyên thuỷ trong Phật giáo mà không tuân thủ theo quy chuẩn đạo đức, tỉnh giác, quán tâm, quán pháp, v.v. phản ánh trong Phật giáo truyền thống. Một số nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm ‘Chánh niệm mì ăn liền’ để chỉ trích việc dùng cụm từ chánh niệm một cách đại trà như một hình ảnh tiếp thị cho lối sống lý tưởng”.
Mặc dù hiện chưa có định nghĩa chính thức nào của chánh niệm được đồng thuận hoàn toàn trong nghiên cứu khoa học, nhóm nghiên cứu chỉ ra một định nghĩa có ảnh hưởng quan trọng trong mảng chăm sóc sức khỏe được trích dẫn hơn 4.000 lần trên Google Scholar (số liệu được cập nhật đến tháng 7/2022) theo chương trình Giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR) phát triển bởi Giáo sư Jon Kabat-Zinn.
Theo đó, chánh niệm được định nghĩa là “sự nhận thức và quan sát trải nghiệm trong thời điểm hiện tại một cách không phán xét, bao gồm cảm giác cơ thể, tình trạng tinh thần nội tại, suy nghĩ, cảm xúc, xung động và ký ức, nhằm giảm khổ hạnh và mang đến an lạc”.
“Theo trường phái tư tưởng này, chánh niệm được định nghĩa như một hành động hay hành vi mang đến kết quả về mặt tình cảm và nhận thức”, Trâm giải thích.
Mặc dù định nghĩa của Giáo sư Kabat-Zinn hữu ích trong chương trình MBSR của ông, định nghĩa này không toàn vẹn trong bối cảnh cuộc sống thường nhật khi chánh niệm là một lối sống hay một đặc điểm tính cách. Các định nghĩa khác cũng gặp vấn đề tương tự. Vì vậy, có rất nhiều tranh luận xoay quanh việc cái gì là chánh niệm và cái gì không phải chánh niệm trong các bối cảnh và lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Những định nghĩa khác nhau và những lĩnh vực không rõ ràng cản trở việc nghiên cứu và ứng dụng chánh niệm liên ngành. Mục tiêu của nhóm nghiên cứu là đưa ra các lĩnh vực nghiên cứu hiện nay về chánh niệm và định nghĩa phù hợp của chánh niệm trong từng lĩnh vực.
Nghiên cứu của nhóm gồm hai giai đoạn: thực hiện tổng quan tài liệu đa chiều phân loại các chánh niệm khác nhau (giai đoạn 1) và xây dựng một bản đồ nội dung hoàn chỉnh bằng phần mềm khai thác dữ liệu (giai đoạn 2).
Kết quả nghiên cứu từ giai đoạn 1 cho thấy có ba nhóm phân loại chánh niệm gồm:
- Tác động ngắn hạn của chánh niệm
- Tác động dài hạn của chánh niệm
- Thực hành chánh niệm
Tác động ngắn hạn của chánh niệm nhìn vào ảnh hưởng của hoạt động này đối với một trạng thái nhất định của tâm trí. Thực hành thuộc lĩnh vực này đa phần trong bối cảnh lâm sàng và có chủ đích với phần mô tả có chung các yếu tố: mục đích hoặc ý định, thời điểm hiện tại và không phán xét.
Tác động lâu dài của chánh niệm xem xét tác động của hoạt động này lên các đặc điểm và hành vi bao gồm nhận thức về bản thân, hình thành khái niệm và siêu nhận thức. Tác động lâu dài bao hàm kết quả của thực hành chánh niệm, chẳng hạn như khả năng tập trung vào trải nghiệm hiện tại, tâm trí khai mở và nhận thức về bản thân. Lĩnh vực này bao gồm các yếu tố như nhận thức và chú ý, cũng như chủ ý và mục đích, nhưng được hình thành dựa trên ý tưởng rằng những kỹ năng này có thể được dạy, để dẫn đến trải nghiệm nâng cao.
Cuối cùng là các phương pháp thực hành chánh niệm, bao gồm nguồn gốc và quá trình sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Hầu hết nghiên cứu trong lĩnh vực này quan tâm đến việc liệu một thực hành chánh niệm nào đó có được thực hành hay nghiên cứu theo một quy trình khoa học hay tôn giáo đã được thiết lập hay không. Tranh luận chính trong lĩnh vực thực hành chánh niệm là liệu các phương pháp thực hiện chánh niệm đương thời có đang tước bỏ các giá trị đạo đức của các phương pháp thực hành Phật giáo/Ấn độ giáo nguyên thủy hay không. Vì lẽ đó, tranh luận trong lĩnh vực này là về nhận thức luận, tiên đề học và sự xứng đáng được xem là đạo đức hay không của cái gọi là và không gọi là “chánh niệm” từ các khía cạnh khác nhau. Trong bối cảnh này, tiên đề học bao hàm cả giá trị đạo đức và thẩm mỹ.