Phát biểu tại diễn đàn, Giáo sư Alberto Posso thuộc Trung tâm Phát triển quốc tế của Đại học RMIT ở Úc bổ sung rằng gián đoạn thương mại do COVID-19 đang ảnh hưởng đến cả hàng hóa cuối cùng và trung gian.
“Không phải tất cả hàng hóa nhập khẩu đều là hàng hóa cuối cùng. Trên thực tế, khoảng 70% hàng nhập khẩu trên toàn cầu là hàng hóa trung gian được sử dụng trong sản xuất. Điều này có nghĩa là gián đoạn thương mại toàn cầu có thể khiến việc sản xuất trong nước khó khăn và đắt đỏ hơn”, Giáo sư nhận định.
Giáo sư Posso đã trình bày kịch bản về trạng thái bình thường mới, khi vắc xin được phổ biến rộng rãi và các doanh nghiệp trên toàn thế giới tìm ra cách thiết lập lại mô hình hoạt động trước khủng hoảng ở một chừng mực nào đó.
“Doanh nghiệp lo sợ những vi-rút mới xuất hiện hoặc các yếu tố khác có thể làm đứt gãy chuỗi cung ứng nên họ sẽ cố gắng đa dạng hóa chuỗi cung ứng”.
“Khi doanh nghiệp mở rộng nguồn cung của mình, nhiều nền kinh tế sẽ có thể tìm thấy thị trường xuất khẩu và cơ hội tăng trưởng mới để hỗ trợ quá trình phục hồi. Việt Nam sẽ không phải là ngoại lệ”, Giáo sư Posso cho biết.
Cơ hội mới với EVFTA và đổi mới sáng tạo
Theo dòng thảo luận về đa dạng hóa chuỗi cung ứng, các chuyên gia từ RMIT đều đánh giá cao Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), và xem đây như nguồn cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt tại thị trường châu Âu và ngược lại.
Theo Tiến sĩ John Walsh, Chủ nhiệm cấp cao bộ môn Kinh doanh quốc tế tại Đại học RMIT, “doanh nghiệp Việt có khả năng tăng xuất khẩu sang EU và đặc biệt là hợp tác với các nhà đầu tư châu Âu, từ đó nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu”.
“Doanh nghiệp trong nước nên lường trước rằng con đường phía trước sẽ rất dài và quanh co. Họ phải sẵn sàng trước cơ hội chuyển đổi hàng hóa thô thành sản phẩm có giá trị gia tăng và có thương hiệu. Họ có thể bắt đầu tiếp cận các thị trường nhỏ hơn tại EU trước khi thâm nhập những thị trường lớn như Đức và Pháp”, Tiến sĩ Walsh nhận định thêm.