Nghiên cứu cũng cho thấy sự phân hóa trong chiến lược chuyển đổi giữa các nhà khai thác cảng. Một số đơn vị có năng lực công nghệ và tài chính mạnh hơn có xu hướng đầu tư vượt mức yêu cầu tuân thủ, coi chuyển đổi là lợi thế cạnh tranh, thậm chí như rào cản gia nhập thị trường. Còn các nhà khai thác nhỏ hơn và thuần nội địa lại chỉ đầu tư ở mức tối thiểu, chọn đi một cách thận trọng do những quy định mới vẫn chưa được hiện thực hóa, tác động tới lợi nhuận còn bất định và thị trường logistics xanh trong nước vẫn còn yếu.
“Nếu khoảng cách này tiếp tục nới rộng, nguy cơ tăng cao tính tập trung của thị trường trên toàn ngành sẽ trở thành một hiện thực đáng lo ngại”, Tiến sĩ Sơn nhận định.
Các cơ quan quản lý nhà nước nhấn mạnh cần thiết phải chuẩn hóa để tránh tình trạng phân mảnh công nghệ và chi phí leo thang. Những tiêu chuẩn như TCCS 02:2022 đặt ra tiêu chí “cảng xanh” trên các khía cạnh nhận thức, tối ưu hóa tài nguyên, chất lượng môi trường, hiệu quả năng lượng và giảm phát thải. Lộ trình chuyển đổi năng lượng cảng biển của Việt Nam gồm bốn giai đoạn: xây dựng tiêu chuẩn (đến 2022), triển khai thí điểm (đến 2025), áp dụng tự nguyện (đến 2030) và tuân thủ bắt buộc sau đó. Lộ trình này được củng cố bởi Quy hoạch Điện VIII, đặt mục tiêu đạt 30,9-39,2% năng lượng tái tạo vào năm 2030 và tiến tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Đại diện cộng đồng địa phương lại nêu ra những mối quan ngại khác, đặc biệt là sự đồng bộ giữa nhu cầu năng lượng của cảng và tàu biển với định hướng phát triển năng lượng ở cấp địa phương và quốc gia. Bên cạnh đó, các rủi ro an toàn và tác động tiềm ẩn tới cư dân sống gần khu vực cảng cũng được nhắc tới, nhất là khi sử dụng các nhiên liệu như hydrogen và amonia. Tuy nhiên, vai trò của cơ quan địa phương và đại diện cộng đồng vẫn còn tương đối hạn chế, chủ yếu đóng vai trò truyền thông và giám sát hơn là tham gia ra quyết định.
Tổng hợp từ các cuộc phỏng vấn, nghiên cứu chỉ ra nhiều rào cản lớn gồm yêu cầu đầu tư cao, khung pháp lý và hạ tầng năng lượng đang trong quá trình hoàn thiện, năng lực kỹ thuật và chia sẻ tri thức còn hạn chế, cùng sự lệch pha giữa áp lực kinh doanh ngắn hạn và các mục tiêu dài hạn của Chính phủ và xã hội.
Xây dựng lộ trình chuyển đổi khả thi
Để ứng phó, báo cáo đề xuất một khung thể chế thích ứng: các mục tiêu quốc gia cần giữ vững tính chiến lược, minh bạch và tiến bộ, còn triển khai ở địa phương phải linh hoạt và phù hợp với điều kiện vùng miền. Nghiên cứu còn nhấn mạnh đến tiềm năng tích hợp cảng biển với hạ tầng cấp tỉnh như các trung tâm vận tải-năng lượng, cũng như phát triển cụm cảng theo vùng như một bước xu hướng tất yếu.
Quá trình chuyển đổi nên bắt đầu từ những giải pháp khả thi và nhận được sự đồng thuận cao nhất của các bên liên quan, như số hóa, tối ưu hóa vận hành, điện khí hóa thiết bị và hệ thống quản lý năng lượng thông minh, trước khi tiến tới sử dụng năng lượng tái tạo và các loại nhiên liệu rủi ro cao hơn. Về tài chính, các cơ chế như tín chỉ carbon, trái phiếu xanh và quỹ đổi mới sáng tạo có thể giúp biến gánh nặng chi phí thành cơ hội đầu tư khả thi.
“Công nghệ chỉ là một phần của lời giải. Tiến bộ thực sự phụ thuộc vào quản trị và hợp tác. Cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, đơn vị khai thác cảng và các hãng vận tải biển đều cần phối hợp nhịp nhàng thì Việt Nam mới có thể đạt được lộ trình chuyển đổi năng lượng cảng biển thực chất và bền vững”, Tiến sĩ Sơn nhấn mạnh.
Các bên liên quan đồng thuận về giải pháp hợp tác
Phiên tọa đàm tại hội thảo đã quy tụ nhiều góc nhìn đa dạng từ ngành hàng hải Việt Nam, cho thấy cả sự đồng thuận và sự phức tạp trên con đường phía trước.
Tiến sĩ Hoàng Hồng Giang, Phó Cục trưởng Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam, nhấn mạnh cách tiếp cận đa bên đi tiên phong của nghiên cứu, lưu ý rằng Việt Nam đang đối mặt với lựa chọn cấp bách: hành động ngay hoặc có nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu. Ông nêu bật kế hoạch xây dựng Hệ thống Cộng đồng Cảng để cho phép chia sẻ thông tin an toàn giữa tất cả các bên liên quan.