Hình thức làm việc mới có thể nâng cấp TP. Hồ Chí Minh

Hình thức làm việc mới có thể nâng cấp TP. Hồ Chí Minh

Theo một nghiên cứu mới đây, “làm việc lưu động” có thể là chìa khóa cải thiện chất lượng cuộc sống tại TP. Hồ Chí Minh khi nơi này được dự đoán sẽ trở thành thành phố kinh tế phát triển nhanh thứ hai ở châu Á trong ba năm tới.

Nghiên cứu “Khảo sát về làm việc lưu động như một phương thức giúp TP. Hồ Chí Minh nhanh chóng chuyển đổi thành thành phố đáng sống hơn” đã được công bố trên Journal of Cleaner Production (Tạp chí Sản xuất sạch). Nghiên cứu tìm hiểu về ảnh hưởng của ùn tắt giao thông, ô nhiễm không khí và cơ sở hạ tầng hạn chế lên điều kiện sống ở thành phố có nền kinh tế đang phát triển tăng vọt này.

TP. Hồ Chí Minh, một trong những thành phố kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á, cũng đang đối mặt với những hệ lụy của bùng nổ kinh tế gồm: ùn tắt giao thông, ô nhiễm không khí và cơ sở hạ tầng hạn chế. TP. Hồ Chí Minh, một trong những thành phố kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á, cũng đang đối mặt với những hệ lụy của bùng nổ kinh tế gồm: ùn tắt giao thông, ô nhiễm không khí và cơ sở hạ tầng hạn chế.

Tiến sĩ Reza Akbari, Giảng viên RMIT Việt Nam đồng thời là chủ nhiệm công trình, cho biết nghiên cứu lấy cảm hứng từ tốc độ phát triển chóng mặt của thành phố, điều sẽ tạo ra ‘nhiều thách thức’ không thể tránh khỏi liên quan đến ùn tắt giao thông và ô nhiễm.

Ông cho biết: “Chúng tôi tìm hiểu các phương pháp hoặc cách làm có thể biến chuyển những thách thức này bằng cách nghiên cứu cách thức làm việc lưu động”.

Tiến sĩ Akbari mô tả cách làm việc lưu động như một mô hình làm việc bên ngoài không gian văn phòng truyền thống và nhân viên liên lạc với nhau bằng công nghệ đám mây. Vì lượng xe hơi và xe máy lưu thông trên đường phố TP. Hồ Chí Minh hàng ngày càng tăng, Tiến sĩ Akbari tin rằng làm việc lưu động là phương thức khả thi để rút ngắn khoảng cách di chuyển đến nơi làm việc.

“Làm việc lưu động không chỉ là làm việc tại nhà”, ông cho biết. “Chúng ta có thể có nhiều cơ sở hoặc văn phòng khác nhau ở các quận khác nhau, để mọi người có thể làm việc tại đó mà không phải đi một quãng đường dài đến Quận 1 [khu trung tâm thành phố] hoặc đi từ đầu này đến đầu kia thành phố”.

Nghiên cứu chỉ ra được thời gian di chuyển trung bình từ nhà đến nơi làm việc và trở về của người tham gia khảo sát là 140 phút. Thời gian ngắn nhất là năm phút, còn thời gian dài nhất là 205 phút. Bảy mươi tư phần trăm người tham gia giao thông cho biết họ muốn làm việc lưu động, nhưng chỉ có 41% được công ty cho phép và 29% thừa nhận họ không biết liệu công ty nơi họ đang làm việc có áp dụng phương thức này hay không.

 

Làm việc lưu động là mô hình làm việc bên ngoài không gian văn phòng truyền thống, theo đó nhân viên liên lạc với nhau qua công nghệ đám mây. Làm việc lưu động là mô hình làm việc bên ngoài không gian văn phòng truyền thống, theo đó nhân viên liên lạc với nhau qua công nghệ đám mây.

Điều hết sức ngạc nhiên là nghiên cứu cho thấy độ tuổi có tỉ lệ không đồng ý làm việc lưu động cao nhất là dưới 24 tuổi. Điều này trái ngược với những nghiên cứu tương tự tại các quốc gia khác.

“Thách thức lớn nhất trong việc thực hiện hình thức làm việc lưu động tại TP. Hồ Chí Minh về lâu dài là sự phản đối của nhóm người trẻ tuổi nhất. Đây là kết quả bất ngờ và cần được nghiên cứu thêm”, ông nói.

Tiến sĩ Akbari tin rằng làm việc lưu động là phương thức khả thi để rút ngắn khoảng cách di chuyển đến nơi làm việc và có thể là chìa khóa cải thiện chất lượng cuộc sống tại TP. Hồ Chí Minh. Tiến sĩ Akbari tin rằng làm việc lưu động là phương thức khả thi để rút ngắn khoảng cách di chuyển đến nơi làm việc và có thể là chìa khóa cải thiện chất lượng cuộc sống tại TP. Hồ Chí Minh.

Đây là công trình nghiên cứu hợp tác giữa Đại học RMIT và Đại học Swinburne. Tiến sĩ Akbari (giảng viên Đại học RMIT) cùng đồng tác giả - Tiến sĩ John Hopkins (Đại học Swinburne) đã xây dựng khảo sát chi tiết để tìm hiểu cách người dân TP. Hồ Chí Minh di chuyển từ nhà đến công sở hàng ngày và theo dõi hành trình của 201 người tham gia khảo sát trong suốt hai năm.

Bài: Michael Tatarski

  • Nghiên cứu

Tin tức liên quan