Tiến sĩ Huy lưu ý rằng trong giai đoạn thí điểm, nếu Việt Nam theo mô hình ETS của EU, theo đó tín chỉ carbon miễn phí vào giai đoạn đầu, sẽ dẫn đến tình trạng thừa mứa nguồn cung tín chỉ carbon do các công ty tham gia sàn giao dịch ước tính lượng phát thải nhà kính chưa chính xác.
“Nguồn cung dư thừa có thể khiến giá giao dịch sụt giảm đáng kể dẫn đến thị trường kém hiệu quả, theo đó giá tín chỉ carbon có thể giảm xuống bằng 0 và các công ty có thể không bị phạt nếu họ phát thải quá mức vì họ có thể mua tín chỉ carbon miễn phí”.
Ông cho biết Việt Nam phải đối mặt với áp lực từ các quốc gia và khu vực đã triển khai thuế carbon chẳng hạn như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Cơ chế CBAM sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các ngành công nghiệp như sắt thép, xi măng, phân bón và nhôm bằng cách đánh thuế carbon nhập khẩu vào EU với các ngành này. Tuy nhiên, CBAM sẽ không được áp dụng nếu Việt Nam có ETS đáp ứng theo chuẩn của EU.
“Chính phủ Việt Nam cần dùng các công nghệ mới nổi như blockchain và AI để đẩy mạnh các quy trình MRV và giảm ước tính sai phát thải khí nhà kính trong giai đoạn thí điểm của sàn giao dịch tín chỉ carbon. Điều này cũng có thể sẽ đẩy nhanh tiến độ ra mắt sàn giao dịch tín chỉ carbon và giảm thiểu tác động của thuế carbon quốc tế đối với các công ty trong nước”, Tiến sĩ Huy nói.
Tiến sĩ Samuel Buertey cũng đề xuất chiến lược sử dụng lợi nhuận thu được từ việc bán tín chỉ carbon nhằm tăng cường bền vững môi trường cho Việt Nam.
“Doanh thu tạo ra từ việc bán tín chỉ carbon có thể phân bổ một cách thông minh vào các ngành công nghiệp khác nhau nhằm đẩy mạnh việc bảo tồn môi trường và hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi sang những hướng thực hiện thân thiện với môi trường hơn”, ông nói.
Với nguồn tài nguyên rừng bạt ngàn, Việt Nam có thể phân bổ một phần lợi nhuận để tiếp tục tài trợ cho các hoạt động quản lý rừng bền vững. Tăng cường quản lý và thể chế giám sát lâm nghiệp, đồng thời đầu tư vào các dự án trồng cây gây rừng và tái trồng rừng, sẽ đảm bảo bảo vệ rừng khỏi bị chuyển đổi cho các mục đích nông nghiệp, công nghiệp và đô thị.
Ngoài ra, chính phủ có thể tạo thêm nhiều ưu đãi cho nông dân và cộng đồng phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên rừng, khuyến khích họ bảo tồn và trồng rừng. Một lần nữa, một phần lợi nhuận từ bán tín chỉ carbon có thể đầu tư vào các dự án năng lượng tái chể để giảm 40% sự phụ thuộc của Việt Nam vào nhiên liệu hóa thạch và giảm bớt phát thải nhà kính.
Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D) các công nghệ giảm phát thải hoặc tăng cường thu hồi carbon là khoản đầu tư đáng cân nhắc. Mặc dù công nghệ thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS) còn đang trong giai đoạn sơ khởi, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển, chính phủ có thể thiết lập một quỹ đặc biệt để hỗ trợ hoạt động R&D trong công nghệ CCUS. Khoản đầu tư này sẽ thúc đẩy đổi mới và cung cấp các giải pháp lâu dài cho những thách thức về môi trường.
Tiến sĩ Buertey còn chia sẻ cách làm tối ưu từ một số quốc gia khác mà Việt Nam có thể áp dụng để cải thiện chiến lược quản lý tín chỉ carbon.
Việt Nam phải thiết lập khung pháp lý mạnh mẽ xác định các quy tắc và hướng dẫn về việc kinh doanh tín chỉ carbon và thực thi hoạt động này. ETS của EU, được biết đến là khung pháp lý nổi bật, có thể là khuôn mẫu mà Việt Nam có thể áp dụng. Việt Nam có thể áp dụng các quy định nghiêm ngặt tương tự để đảm bảo tính liêm chính và tuân thủ của thị trường. Các yêu cầu báo cáo minh bạch và vững mạnh có thể bắt buộc thực thi như một chiến lược xây dựng lòng tin và giảm tình trạng không chắc chắn trên sàn giao dịch tín chỉ carbon. Thường xuyên công bố dữ liệu thị trường, bao gồm các báo cáo về phát thải và kết quả đấu giá, sẽ giúp giảm rủi ro thị trường.
Mặc dù giá tín chỉ carbon nên được quyết định bởi thị trường, Việt Nam có thể triển khai chiến lược ổn định thị trường dựa trên quy tắc để giải quyết biến động giá quá mức và không khuyến khích đầu tư vào carbon thấp. Chương trình Mua bán phát thải của Hàn Quốc (K-ETS) dùng dự trữ ổn định thị trường (MSR) để quản lý nguồn cung hạn ngạch phát thải và cách bang California ở Hoa Kỳ dùng giá sàn và giá trần để bình ổn giá cho Việt Nam những ví dụ tham khảo hay về cách làm thế nào có thể hạn chế biến động thị trường. Một chiến lược khác mà Việt Nam nên cân nhắc trong trung và dài hạn là liên kết với các thị trường carbon khác trong khu vực và trên toàn cầu. Từ năm 2020, EU đã liên kết ETS của mình với Thụy Sĩ, giúp thị trường linh hoạt và hiệu quả hơn. Việt Nam nên xem xét cách tiếp cận tương tự để tăng cường tính thanh khoản và đem đến nhiều lựa chọn giao dịch hơn cho doanh nghiệp.
“Với các biện pháp cẩn trọng và vững chãi, Chính phủ Việt Nam có thể thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon non trẻ và đẩy mạnh tính bền vững”, Tiến sĩ Huy.
Bài: Tiến sĩ Phạm Nguyễn Anh Huy và Tiến sĩ Samuel Buertey
Ảnh đầu trang: Thanawat_Suesoypan – stock.adobe.com
Ảnh đại diện: Thann – stock.adobe.com
Ảnh trong bài: vutuankhanh - stock.adobe.com